Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Fri Feb 20, 2015 11:19 am

http://vi.wikipedia.org/wiki/N%C5%8D

http://en.wikipedia.org/wiki/Noh

Kịch Noh có thể nói là loại hình nhạc kịch nghệ thuật cổ xưa nhất của nhật bản với lịch sử hàng trăm năm .Câu truyện trong nhạc kịch không chỉ diễn ra bằng lời thoại mà cả bằng hát (utai), nhạc đệm và múa . Theo một số nhà nghiên cứu chuyên môn thì có lẽ kịch Noh bắt nguồn ở Nhật Bản từ thế kỉ thứ XIII sau khi chứng kiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản. Hai loại hình Bungaku và Sangaku là khởi đâu cho một loại hình tạp kĩ mới - nhào lộn ; đến thời đại Kamakura loại hình kịch Noh đầu tiên ra đời rồi từ đó bắt đầu phát triển như ngày nay.

Kịch Noh là loại hình biểu diễn có cốt truyện. Cốt truyện được thể hiện thông qua lời hát gọi là utai và diễn viên được phân chia thành Waki là diễn viên chính . Shite là diễn viên phụ. Những diễn viên mang mặt nạ sơn dầu bằng gỗ , diễn viên chính luôn được mặc các bộ quần áo thiêu bằng lụa có màu sắc rất sặc sỡ. Mặt nạ dùng để thể hiện các nhân vật trong vở nhạc kịch như một người đàn ông cao tuổi, một người đàn bà cao tuổi hay một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp, một vị thần thánh, một bé gái, một con ma hay là ác quỷ... Tất cả những nhân vật ấy đều được thể hiện trên những mặt nạ sơn dầu . Và mặt nạ kịch Noh cũng chính là những tác phẩm tuyệt tác của người Nhật Bản xưa. Với một số người thì thoạt nhìn những đường nét được miêu tả trên mặt nạ rất giống nhau, nhưng thực ra lại có sự khác biệt được thể hiện tinh tế trên mỗi đường nét của mặt nạ.

Sân khấu kịch Noh được làm bằng gỗ của Nhật, một loại gỗ có màu trắng rất đặc biệt. Sân khấu hình vuông, mở, và khán giả có thể nhìn thấy diễn viên từ 3 phía của khán đài. Một đặc điểm khác của sân khấu kịch Noh chính là sự bài chí hết sức đơn giản của nó. Người diễn viên bước ra sân khấu qua một hành lang, bao quanh sân khấu là một sân rải đá cuội nhỏ theo kiểu vườn Nhật Bản nhằm mục đích phối cảnh cho các màn kịch trên sân khấu.

Ngoài ra, dàn nhạc đệm Hayashi là một thứ không thể thiếu được trong các loại nhạc kịch này gồm 1 người chơi sáo (nokan), một người đảm nhiệm các loại trống vác trên vai (kotsuzumi), một người phụ trách trống đặt trên đùi (otsuzumi), trống to đặt trên kệ (taiko).

Cuối cùng là những điệu múa phụ họa trong Noh, thực sự khác xa với những điệu Odori truyền thông dân dã. Điệu múa của Noh thể hiện vẻ đẹp thâm sơn, huyền bí (Yugen), một yếu tố đòi hỏi người diễn thông qua đó bộc lộ cho khán giả thấy được các bản tính sâu kín, hàm ý bên trong các sự kiện, nhân vật đang được tái hiện trên sân khấu.

Các nhà nghiên cứu đã chia kịch Noh ra làm 5 loại đó là : Waki Noh - Những vở kịch có nhân vật chính là thần và nữ thần, Shura Momo - vở kịch có nhân vật chính là các võ sĩ Nhật thời trung cổ, Kazura Môn - nhân vật chính là phụ nữ, Kiri Noh - vở kịch khắc họa những nhân vật siêu nhiên, và nhóm cuối cùng là những vở kịch không thuộc những nhóm trên.

Noh đã song hành cùng thời gian và trở thành một trong những nét văn hóa truyền thống đặc sắc nhất của đất nước hoa anh đào, để lại đấu ấn sâu sắc trong lòng những người đã từng xem nó và quan tâm đến nó.
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Fri Feb 20, 2015 12:09 pm

Phân vai

Có bốn thể loại người biểu diễn kịch Nō chính là: shite, waki, kyōgen, và hayashi.

   Shite (仕手, シテ, sĩ thủ), nghĩa đen là "người thực hiện" là vai trò thường thấy nhất trong kịch Nō.
       Shite (diễn viên chính). Trong các vở kịch mà shite xuất hiện ban đầu dưới lốt người rồi sau hiện thân thành quỷ, vai ban đầu được gọi là maeshite và vai sau gọi là nochishite.
       Shitezure (仕手連れ, シテヅレ) bạn diễn của shite. (Đôi khi được viết tắt là "tsure" (連れ, ツレ), mặc dù cụm này được dùng để chỉ cả shitezure và wakizure.)
   Waki (脇, ワキ, hiếp) diễn vai phù trợ hay làm nền cho shite.
   Wakizure (脇連れ, ワキヅレ) là bạn diễn với waki.
   Kyōgen (狂言, cuồng ngôn) diễn aikyogen giải lao giữa các màn kịch. Diễn viên kyōgen cũng diễn trong những màn kịch riêng giữa hai vở kịch Nō.
   Hayashi (囃子) hay hayashi-kata (囃子方) là các nhạc công chơi bốn loại nhạc cụ trong nhà hát kịch Nō: sáo fue, trống okawa hay ōtsuzumi, trống kotsuzumi, và trống cái taiko.
   Jiutai (地謡, địa dao) là dàn hợp xướng, thường có từ 6 đến 8 người
   Kōken (後見, hậu kiến) là người giúp việc sân khấu, thường gồm 1 đến 3 người

Một vở kịch Nō thông thường gồm 4 hay 5 loại diễn viên và kéo dài khoảng 30-120 phút. Chỉ có đàn ông mới được diễn kịch Nō.

Kashu-Juku Noh Theater


Có khoảng 1500 diễn viên kịch Nō chuyên nghiệp ở Nhật Bản hiện nay, và loại hình nghệ thuật này vẫn tiếp tục phát triển. Các diễn viên bắt đầu việc rèn luyện từ tấm bé, theo truyền thống là từ lúc ba tuổi.

Năm trường dạy diễn xuất shite của kịch Nō hiện nay là Kanze (観世, Quán Thế), Hōshō (宝生, Bảo Sinh), Komparu (金春, Kim Xuân), Kita (喜多, Hỉ Đa), và Kongō (金剛, Kim Cương). Mỗi trường đo một gia đình đứng đầu gọi là sōke, và người đứng đầu mỗi gia đình được quyền sáng tác những vở kịch mới hay hiệu đính lại các bài hát.

Xã hội kịch Nō bảo vệ nghiêm ngặt truyền thống truyền lại từ tổ tiên (xem iemoto). Tuy vậy, vài tàng thư bí mật của trường Kanze do Zeami viết, và của trường Komparu do Komparu Zenchiku viết đã được lan truyền trong cộng đồng các nhà hát Nhật Bản.

Các diễn viên thường tuân theo một sự tiến triển nghiêm khắc thông qua sự phấn đấu cả đời từ những vai cơ bản cho đến những vai phức tạp nhất; vai Yoshitsune trong Funa Benkei là một trong những vai nỏi bật mà các diễn viên trẻ con thường biểu diễn trong kịch Nō.
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Fri Feb 20, 2015 12:20 pm

Yếu tố biểu diễn

Biểu diễn Nō bao gồm rất nhiều các yếu tố hợp thành phong cách chung, với mỗi yếu tố bắt nguồn từ văn hóa Phật giáo, Shintō, và các khía cạnh nhỏ nữa trong các quan điểm mỹ học của kịch Nō.

Sân khấu

Sân khấu kịch Nō truyền thống bao gồm một sảnh theo lối kiến trúc sân khấu kagura truyền thống của những ngôi đền Shintō, và thường được làm từ gỗ hinoki (cây bách Nhật Bản). Bốn cột được đặt tên theo hướng của nó trong vở diễn: waki-bashira ở trước, góc phải gần vị trí đứng và ngồi của waki; cột shite-bashira ở rìa, góc trái, ở gần vị trị ‘'shite thường biểu diễn; cột fue-bashira ở rìa góc phải, gần người thổi sáo; và cột metsuke-bashira, hay "cột nhìn", gọi vậy là vì "shite" thường đối mặt và ở gần cột này.

Sàn được đánh bóng để diễn viên có thể diễn cá pha trượt, và dưới sàn được chôn các bình lớn bằng hay các kết cấu rỗng nhưng chắc chắn để tăng độ vang của sàn gỗ khi diễn viên dậm mạnh lên sàn. Và để làm điều đó, sàn được nâng lên khoảng ba foot so với khán giả.

Sự trang trí duy nhất trên sân khấu là kagami-ita, bức tranh cây thông ở phía cuối sân khấu. Người ta tin rằng nó đại diện cho cây thông nổi tiếng ở đền Kasuga ở Nara, hoặc là biểu hiện của cho các bậc tiền bối đã đặt nền móng cho nghệ thuật Nō.

Một đặc điểm độc đáo khác của sân khấu là hashigakari, một cây cầu hẹp ở bên phải (từ phía khán đài nhìn tới là bên trái) mà diễn viên chính thường dùng để đi lên sân khấu. Đường này sau được phát triển thành hanamichi ở kabuki.

Tất cả các sàn diễn đều dành cho kịch Nō một cái móc hay cái thòng lọng ở trên trần để treo và đánh chuông cho vở kịch Dōjōji. Khi vở kịch đó được biểu diễn ở nơi khác, cái móc này sẽ được lắp thêm vào tạm thời.

Phục trang

Quần áo của diễn viên được trang trí bằng nhiều nhiều loại biểu tượng cho loại diễn viên. Ví dụ thần sấm sét sẽ có hình lục giác trên áo, trong khi rắn sẽ có hình tam giác tượng trưng cho vảy. Phục trang cho "shite" được đặc biệt cường điệu hóa, với kim tuyến lấp lánh, nhưng còn ít lộng lẫy hơn so với tsure, wakizure, và aikyōgen.

Nhạc công và hát bè thường mặc montsuki kimono (đen và được trang trí bằng gia huy của năm gia đình) cùng với hakama (một loại áo vải) hay kami-shimo, hòa trộn giữa hakama và áo thắt eo với vai phồng. Cuối cùng, những người phục vụ sân khấu mặc vải đen không được trang trí, giống như cách họ mặc ở các sân khấu phương Tây hiện nay.

Mặt nạ

Mặt nạ trong kịch Nō (能面 nō-men (năng diện) hay 面 omote (diện)) đều có tên riêng.

Thường chỉ có shite, diễn viên chính, mới đeo mặt nạ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, tsure cũng có thể đeo mặt nạ, đặc biệt là với vai nữ. Mặt nạ kịch Nō vẽ chân dung của phụ nữ hay những nhân vật không phải người (thần thánh, quỷ, hay động vật). Cũng có vài mặt nạ kịch Nō để diễn tả trẻ con hay người già. Mặc khác, diễn viên không đeo mặt nạ đóng vai đàn ông trưởng thành ở 20, 30 hay 40 tuổi. Diễn viên phụ waki không đeo mặt nạ.

Vài loại mặt nạ, đặc việt là cho vai nữ, được thiết kế để chỉ cần một sự điều chỉnh nhẹ ở vị trí đầu cũng có thể biểu lộ nhiều cảm xúc như sợ hãi hay đau buồn nhờ vào ánh sáng và góc độ hướng đến khán giả. Với những mặt nạ lộng lẫy cho thần thánh hay quỷ, thường không thể thể hiện cảm xúc. Tuy vậy, thông thường, những nhân vật này không được yêu cầu phải thay đổi biểu lộ cảm xúc trong toàn buổi diễn, hay thể hiện cảm xúc thông qua ngôn ngữ cơ thể.

Những mặt nạ Nō hiếm nhất và giá trị nhất thậm chí không được lưu giữ ở các bảo tàng Nhật Bản, mà trong các bộ sưu tập cá nhân của hiệu trưởng (iemoto) các trường dạy kịch Nō; những báu vật này chỉ được trưng bày cho một thiểu số người xem và hiếm khi được mang ra biểu diễn. Nó không làm hư hại gì khi đem ra nghiên cứu và đánh giá mặt nạ kịch Nō, vi truyền thống đã để lại vài trăm tiêu chuẩn thiết kế mặt nạ khác nhau, có thể phân thành một tá các thể loại.

Đạo cụ sân khấu

Đạo cụ hay được sử dụng nhất trong kịch Nō là chiếc quạt, được mọi người biểu diễn mang theo cho dù vai trò của họ có là gì. ca sĩ hát bè và nhạc công cầm quạt khi tiến vào sân khấu, hay nhét nó vào khăn obi. Dù trong trường hợp nào, quạt cũng thường được đặt ở bên cạnh người diễn khi anh ta ngồi vào vị trí của mình, và thường được mang theo khi họ rời sân khấu.

Vài vở kịch có những nhân vật cầm cái vồ, thanh kiếm hay các đạo cụ khác. Tuy nhiên, trong cảnh múa, cây quạt được dùng để thể hiện bất kỳ một loại đạo cụ cầm tay nào khác, ví dụ như thanh kiếm mà diễn viên có thể gài vào khăn hay cầm sẵn ở tay kia.

Khi các đạo cụ cầm tay ngoài chiếc quạt được sử dụng, nó thường được giới thiệu hay được phục vụ sân khấu đưa cho. Giống như đối tác trên sân khấu phương Tây, nhân viên sân khấu kịch Nō mặc áo đen theo truyền thống, nhưng khống giống phương Tây ở chỗ họ xuất hiện trên sân khấu trong các cảnh, và có thể cứ ở trên sân khấu trong suốt buổi biểu diễn, trong cả hai trường hợp đều ở trước mắt khán giả.

Đạo cụ sân khấu kịch Nō còn có thuyền, giếng nước, bệ thờ, và cái chuôn đã nói ở trên cho Dōjōji, thường được mang lên sân khấu từ trước buổi diễn khi cần. Những đạo cụ này thể hiện bằng những nét chính để gợi ra vật thật, mặc dù chiếc chuông lớn, một trường hợp đặc biệt tồn tại lâu dài đối với các luật tục của kịch Nō, được thiết kế để giấu các diễn viên và cho phép thay đổi trnag phục trong các màn biểu diễn aikyogen xen giữa.

Bài hát và âm nhạc

Nhà hát Nō đi cùng với dàn hợp xướng hay đồng ca hayashi (Nō-bayashi 能囃子). Nō là một loại kịch hát, và một vài nhà bình luận đã gọi đây là opera Nhật Bản. Tuy nhiên, giọng hát trong kịch Nō có một số giới hạn về âm, với độ ngân, độ vang trong một diện hẹp. Rõ ràng là giai điệu không phải là trung tâm của ca hát trong kịch Nō. Hơn nữa, lời ca là những câu thơ, phụ thuộc chặt chẽ vào thể loại thơ thất-ngũ quen thuộc trong thơ ca Nhật Bản, ít câu chữ nhưng nhiều ẩn ý.

Một lưu ý quan trọng là ca hát không phải luôn luôn đi liền với nhân vật; đôi khi, cách nói của diễn viên hay miêu tả sự kiện từ cái nhìn của một nhân vật khác hay thậm chí một người kể chuyện vô tư. Không hề phá vỡ nhịp điệu của vở diễn, điều đó thực sự đã giúp cho nhiều người từ những nền văn minh khác hiểu hơn về kịch Nō, đặc biệt là những nhân vật thuộc thể loại mugen (không lời).

Đồng ca Nō hayashi bao gồm bốn nhạc công, còn được gọi là "hayashi-kata". Có ba người đánh trống, chơi shime-daiko, ōtsuzumi, và kotsuzumi, và một người thổi sáo shinobue.

Jo, Ha, Kyū

Một trong những yếu tố biểu diễn huyền ảo nhất của kịch Nō là Jo-ha-kyū, bắt nguồn từ gagaku (nhã nhạc). Tuy nhiên, thay vì đơn giản chỉ chia một vở kịch thành ba phần, trong kịch Nō không chỉ diễn một mình kịch, mà cả hát và múa trong vở diễn, và thậm chí những bước đi, cử chỉ, âm thanh mà diễn viên hay nhạc công tạo ra. Hơn nữa, từ tầm nhìn cao, cả chương trình truyền thống của kịch Nō gồm năm vở diễn chứng minh ý niệm chung này, vở thứ nhất chơi jo, vở thứ hai, thú ba, và thứ tư là ha (vở thứ hai được gọi là jo trong số ha, vở thứ ba gọi là ha trong phần ha, và vở thú ba gọi là kyū trong phần ha), và vở thứ năm gọi là kyū. Nói chung, phần jo chậm và gợi nhiều liên tưởng, phần ha hay phần đi vào chi tiết hay không tuân theo quy luật tự nhiền và thế giới tự nhiên, và kyū giải quyết mọi vấn đề nhanh chóng và bất ngờ (tuy vậy, lưu ý là, điều này chỉ có nghĩa là kyū nhanh so với những các phần trước đó, và những người không quen với các quy tắc của kịch Nō có thể không nhận ra việc đẩy nhanh tốc độ).
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Fri Feb 20, 2015 12:22 pm

Vở kịch

Có khoảng 250 vở kịch Nō trong kịch mục hiện nay, có thể được phân chia theo nhiều tiêu chí. Nhưng tiêu chí phổ biến nhất là dựa vào nội dung, nhưng cũng lại có đến vài phương pháp sắp xếp.

Thể loại

Kami mono (神物, thần vật) hay waki nō (脇能, hiếp năng) có đặc điểm là để shite dưới vai người trong màn thứ nhất và vai một vị thần trong màn hai, và kể lại một câu truyện thần thoại về một ngôi đền hay ca ngợi một linh hồn đặc biệt.
Shura mono (修羅物, tu la vật) hay asura nō (阿修羅能, Atula năng) với shite thường xuất hiện với vai quỷ trong màn một và một trận chiến tượng trưng trong màn hai, kết thúc với cái chết của vai này.
Katsura mono (鬘物, man vật) hay onna mono (女物, nữ vật) với shite đóng vai nữ và là loại có nhiều bài hát và điệu múa tinh tế nhất trong các thể loại kịch Nō.
Có khoảng 94 vở kịch hỗn hợp, bao gồm kyōran mono (狂乱物) hay cuồng loạn vật, onryō mono (怨霊物) hay kịch ma báo thù, và genzai mono (現在物, hiện tại vật), kịch lấy chủ đề đương thời, và không được xếp vào các thể loại khác.
Kiri nō (切り能, kịch cuối cùng) hay oni mono (鬼物, quỷ năng) thường có "shite" đóng vai ma, quỷ, yêu tinh, và thường có màu sáng và tiết tấu nhanh, căng thẳng trong các động tác cuối.

Tâm trạng

Mugen nō (夢幻能, mộng ảo năng) thường về linh hồn, ma, ảo ảnh, và thế giới siêu nhiên. Thời gian thường được mô tả là đang trôi đi bằng các trang phục không có kẻ sọc dài, và các hành động chuyển giữa hai khoảng thời gian.
Genzai nō (現在能, hiện tại năng), như đã nói ở trên, miêu tả sự kiện bình thường hàng ngày. Tuy nhiên, ngược với mugen, cụm từ này bao hàm các thể loại kịch trên một diện rộng hơn.

Phong cách

Geki nō (劇能, kịch năng) hay các vở kịch dựa một phần vào phát triển từ kịch bản hay thuật lại hành động.
Furyū nō (風流能, phong lưu năng) hay kịch múa tập trung vào chất lượng thẩm mỹ của các điệu múa và bài hát được diễn.

Okina (hay Kamiuta) là một thể loại đặc biệt kết hợp các điệu múa lễ nghi của Shintō. Nó được coi là thể loại kịch Nō cổ nhất, và cũng là loại hay được diễn nhất. Nói chung là nó hay mở đầu bất kỳ một chương trình hay lễ hội nào.

Nguồn gốc

Truyện kể Heike, một câu chuyện thời trung cổ về sự hưng vượng và sụp đổ của gia tộc Taira, bắt nguồn từ bài hát của những nhà sư mù chơi đàn biwa, là một nguồn quan trọng trong các chất liệu của kịch Nō (và các thể loại kịch sau này), đặc biệt là kịch chiến binh. Một nguồn quan trọng khác là Truyện kể Genji, tác phẩm văn học vào thế kỷ thứ 11 có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của văn hóa Nhật Bản. Các tác giả cũng lấy cảm hứng từ thời kỳ Nara, thời kỳ Heian, và các nguồn từ Trung Quốc.
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Sat Mar 07, 2015 11:31 pm

Bunraku (文楽 "Văn lạc"), còn được gọi là Ningyō jōruri (人形浄瑠璃, Nhân hình tịnh lưu ly), là một thể loại kịch rối truyền thống Nhật Bản, khởi phát ở Osaka năm 1684.

Có ba loại người trình diễn trong một vở bunraku:

- Ningyōtsukai hay Ningyōzukai - Người điểu khiển rối
- Tayū - người lĩnh xướng
- Shamisen ("Tam vị tuyến") diễn viên

Thông thường các nhạc cụ khác như trống taiko cũng được dùng.

Thuật ngữ chính xác nhất cho kịch rối truyền thống Nhật Bản là ningyō jōruri. Sự kết hợp của lĩnh xướng và kịch nghệ shamisen được gọi là jōruri và trong tiếng Nhật, con rối được gọi là ningyō.


Ban đầu, cụm từ "Bunraku" chỉ dùng để chỉ nhà hát đặc biệt thành lập ở Osaka năm 1872, được đặt tên là Bunrakuza theo tên của người điểu khiển rối Uemura Bunrakken vào đầu thế kỷ 19 ở đảo Awaji, người mà với những cố gắng của mình đã phục hồi lại di sản kịch rối truyền thống đang suy tàn vào thế kỷ 19.

Sau này sự nổi trội của Nhà hát Bunraku Quốc gia Nhật Bản, hậu duệ của nhà hát được Bunrakken thành lập, đã làm phổ cập cái tên "Bunraku" trong thế kỷ 20 đến mức mà nhiều người Nhật dùng cụm từ này để chỉ chung mọi loại hình kịch rối truyền thống Nhật Bản.

Tuy vậy, phần lớn các đoàn kịch rối truyền thống đang tồn tại hiện nay ngoài Oska đểu được thành lập và đặt tên rất lâu sau thời Uemura Bunrakukken và nhà hát của ông, vì vậy họ không dùng từ này để chỉ mình. Một số trường hợp ngoại lệ là các đoàn kịch được thành lập từ những người điều khiển rối từ Bunraku-za hay những người học trò rời Osaka và thành lập nhà hát múa rối tại các tỉnh.

83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Sat Mar 07, 2015 11:33 pm

Con rối Bunraku có kích cỡ cao từ 0,75 đến 1,2m hay hơn, dựa trên tuổi tác, giới tính của nhân vật và tục lệ của mỗi đoàn kịch riêng. Trong rất nhiều nhà hát trên khắp Nhật Bản, rối truyền thống Osaka nói chung là nhỏ nhất, trong khi rối truyền thống Awaji, nơi phần lớn các vở kịch ban đầu được diễn ở không gian lớn ngoài trời, là lớn nhất.

Đầu và tay của rối truyền thống được các chuyên gia chạm trổ, trong khi thân mình và trang phục thường được người điểu khiển rối thực hiện. Đầu có thể có nhiều máy móc tinh xảo. Trong các vở kịch để tài siêu nhiên, một cỏn ối có thể được thiết kế sao cho mặt chúng có thể nhanh chóng chuyển thành mặt quỷ. Những chiếc đầu ít phức tạp hơn có thể biết chớp mắt, đảo mắt, nhắm mắt và mũi, mồm, lông mày có thể di.

Việc điều khiển mọi chuyển động của các bộ phận trên đầu được đặt trên một tay cầm gắn vào cổ con rối và được nghệ sỹ rối chính điều khiển bằng cách đưa tay trái vào ngực con rối thông qua một cái lỗ ở sau thân.

Nghệ sỹ rối chính, omozukai, dùng tay phải để điểu khiển tay phải con rối. Nghệ sỹ rối bên trái, được gọi là hidarizukai hay sashizukai, phục thuộc vào truyền thống của đoàn kịch, điều khiển tay trái con rối bằng tay phải của mình qua một cây gậy điểu khiển gắn vào cùi trỏ con rối. Nghệ sỹ rối thứ ba, gọi là ashizukai, điểu khiển cẳng chân và bàn chân.

Tất cả các con rối trừ các con rối rất phụ đều cần ba người điểu khiển, tất cả bọn họ đều được khán giả thấy rõ, và thường mặt áo dài đen. Phong tục một số nơi còn yêu cầu tất cả nghệ sỹ rối đội mũ trùm đen, trong khi một số khác, bao gồm Nhà hát Bunraku Quốc gia, thì nghệ sỹ rối để đầu trần, một phong cách biểu diễn gọi là dezukai.

Thường một người lĩnh xướng thuật lại mọi phần của nhân vật, dùng cao độ giọng khác nhau để chuyển đổi qua các nhân vật. Tuy vậy, đôi khi lại sử dụng nhiều người lĩnh xướng. Người lĩnh xướng ngồi cạnh người chơi shamisen trên một bệ nổi, và mỗi khi bệ này xoay, mang theo nhạc cụ thay thế cho cảnh tiếp.

Shamisen dùng trong bunraku có thanh điêu khác với các shamisen khác. Giọng trầm hơn và tiếng cũng đầy hơn.

Bunraku có chung nhiều chủ đề với kabuki. Thực tế, nhiều vở kịch đều được viết cho cả diễn viên kabuki lẫn các đoàn kịch rối bunraku. Bunraku đặc biệt chú ý đến những vở kịch tự sát của các đôi nhân tình. Câu chuyện 47 Ronin nổi tiếng ở cả bunraku lẫn kabuki.

Bunraku là tác giả của nhà hát, ngườ với kabuki, là người biểu diễn của nhà hát. Trong Bunraku, trước buổi diễn, người lĩnh xướng nêu ra câu chuyện và cúi chào khán giả, hứa sẽ thuật lại một cách trung thực. Ở kabuki, diễn viên thường sử dụng lỗi chơi chữ trong tên mình, ứng khẩu, tham khảo thêm những gì đang diễn ra và một số thứ khác có thể không đúng theo kịch bản.

Nhà viết kịch Bunraku nổi tiếng nhất là Chikamatsu Monzaemon. Với sự nghiệp hơn một trăm vở kịch, đôi khi ông được gọi là Shakespeare của nước Nhật.

Các đoàn kịch, diễn viên, và người làm rối bunraku đã được đưa vào danh sách các "Di sản Quốc gia sống " theo chương trình bảo tồn văn hóa truyền thống của Nhật.


Osaka là nhà của đoàn kịch do chính phủ tài trợ tại Nhà hát Bunraku Quốc gia. Đoàn kịch thường diễn từ năm vở trở lên mỗi năm, mỗi vở diễn trong vòng từ 2 đến 3 tuần ở Osaka trước khi chuyển đến Tokyo diễn tại Nhà hát Quốc gia. Đoàn kịch Bunraku Quoocsi gia cũng lưu diễn trên toàn nước Nhật và đôi khi cũng ra nước ngoài.

Cho đến cuối những năm 1800, có hàng trăm đoàn kịch chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp và không chuyên trên khắp nước Nhật và trình diễn kịch rối truyền thống.

Kể từ sau thế chiến thứ II, số lượng đoàn kịch chỉ còn dưới 30, phần lớn các đoàn chỉ biểu diễn 1 hay 2 lần một năm, thường kết hợp với các lễ hội địa phương. Tuy vậy, một vài đoàn kịch vùng vẫn tiếp tục biểu diễn hăng hái.

Đoàn kịch rối Awaji, nằm ở đảo Awaji phía Tây Kobe, diễn các vở kịch ngắn hàng này và những vở lớn hơn tại nhà hát của mình. Họ đã lưu diễn tại Mỹ, Nga và nhiều quốc gia khác.

Đoàn kịch Bunraku truyền thống Tonda tại tỉnh Shiga, thành lập trong những năm 1830, đã lưu diễn tại Mỹ và Australia 5 lần và rất tích cực tổ chức các chương trình hàn lâm ở Nhật Bản cho các sinh viên Mỹ muốn theo học kịch rối truyền thống Nhật Bản.

Đoàn kịch rối Imada, đã biểu diễn tại Pháp, Đài Loan, Mỹ, cũng như Đoàn kịch rối Kurroda ở thành phố Ida, tỉnh Nagano. Cả hai đoàn này, với lịch sử hơn 300 năm, biểu diễn đều đặn và cũng tích cực chăm lo cho một thế hệ nghệ sỹ rối mới và khai phá thêm các kiến thức về nghệ thuật rối qua các chương trình đào tạo ở các trường trung học và dạy các sinh viên Mỹ trong các chương trình học thuật mùa hè tại nhà hát của mình.

Sự hâm mộ kịch rối Bunraku ngày càng tăng đã góp phần vào việc thành lập đoàn kịch rối truyền thống Nhật Bản đầu tiên ở Bắc Mỹ. Từ năm 2003, Đoàn kịch rối Bunraku Bay, đặt trụ sở tại Đại học Missouri, Columbia, Missouri, đã diễn tại các nơi gặp mặt vòng quanh nước Mỹ, bao gồm Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Kennedy và Viện Smithsonian, cũng như ở Nhật.

Ở châu Âu và châu Mỹ, cụm từ "Bunraku" thường được dùng trong giới nghệ sỹ rối để miêu tả các con rối điều khiển theo lối tương tự với các nhà hát kịch rối Bunraku truyền thống Nhật Bản, ngược lại với rối tay, rối gậy, rối bóng, rối thường. Nét đặc trưng của "bunraku" phương Tây thường bao gồm nhiều nghệ sỹ rối và có thể nhìn thấy họ, trực tiếp điều khiển rối. Các yếu tố khác cạnh tranh với các nhà hát Bunraku truyền thống có lẽ là quà tặng. Việc sử dụng cụm từ này làm một số người theo chủ nghĩa thuần túy quan ngại, nhưng các nghệ sỹ rối phương Tây thấy rằng từ này khá tiện dụng trong việc miêu tả phong cách rối ảnh hưởng từ truyền thống Nhật Bản mà không một cụm từ tiếng Anh súc tích nào có được.
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Sat Mar 07, 2015 11:46 pm

83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by 83Nguyen Sat Mar 14, 2015 6:24 pm

Rakuko - Nghệ thuật Tấu hài đặc sắc của Nhật Bản

Rakuko, theo nghĩa đen, là một loại hình nghệ thuật giải trí truyền thống của Nhật Bản. Người biểu diễn sẽ ngồi một chỗ trên sân khấu và độc diễn tấu hài chỉ với những đạo cụ như là chiếc quạt giấy sensu và một chiếc khăn tay tenugui.

Anh ta kể lại những câu chuyện hài dài và rắc rối mà không cần di chuyển vị trí. Vì các câu chuyện hài trong Rakugo đều được diễn đạt bằng Tiếng Nhật, nên ngôn ngữ luôn là một rào cản lớn khiến cho nhiều người nước ngoài không thể thưởng thức được hết sự thú vị của bộ môn nghệ thuật này.

http://en.wikipedia.org/wiki/Rakugo
83Nguyen
83Nguyen

Tổng số bài gửi : 1813
Join date : 29/06/2014

Về Đầu Trang Go down

Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản Empty Re: Nghệ thuật Sân khấu Truyền thống Nhật Bản

Bài gửi by Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết